Ở thế kỷ XVIII, các tác giả có thói quen viết những tiêu đề rất trau chuốt, tỷ mỷ - những tiêu đề có thể nói hết cho người đọc biết cuốn sách viết gì. Bây giờ, bạn sẽ hiểu vì sao tác giả một cuốn sách thực hành luôn phải sắm vai của một nhà diễn thuyết hay tuyên truyền viên. Sau khi đặt câu hỏi cuốn sách chứng minh điều gì, bạn nên hỏi tiếp xem tác giả đang cố thuyết phục ai.
Đó là ghi chú về hình thức thảo luận - cuộc thảo luận mà tất cả các tác giả cùng tham gia cho dù có nhiều người không biết nhau. Nói cách khác, mỗi lập luận đều phải có một xuất phát điểm. Đối với các vấn đề không quan trọng, bạn chỉ cần liếc qua nhưng phải đảm bảo tìm và đọc các đoạn Newton nêu lên quan điểm chính của ông.
Đơn vị logic mà quy tắc 7 hướng tới là lập luận - một chuỗi những nhận định, cái nọ bổ trợ cho cái kia. Tác phẩm cũng giúp bạn thấy chính xác đâu là cách đọc sách đích thực, cùng những giá trị và những niềm vui mà nó mang lại. Một tác phẩm thần học giáo điều luôn lệ thuộc vào các tín điều và quyền lực của nhà thờ tuyên bố các tín điều đó.
Bạn nên lưu ý đến mối quan hệ mật thiết giữa đọc và nghe. Phần 7 - định nghĩa mối quan hệ giữa ban lập pháp và hành pháp của chính phủ; miêu tả quyền phủ quyết của tổng thống. Có hai yếu tố khác ảnh hưởng đến quy tắc trên.
Theo nghĩa này, ai cũng có thể sáng tác thơ trong một tâm trạng nhạy cảm, cô đơn ở mọi thời điểm. Ví dụ, sự phân tích về loại hình chính quyền trong tác phẩm Politics (Chính trị) của Aristotle là không hoàn chỉnh. Bạn nên đọc nó như đọc lịch sử.
Chỉ khi đã nắm vững cả bốn giai đoạn đọc sơ cấp, trẻ mới có sự chuẩn bị cho các giai đoạn cao hơn, bước đầu đọc một cách độc lập và tự mình học hỏi. Việc đọc sách, giống như tự khám phá, chính là học mà không có thầy giáo. Được xuất bản lần đầu tiên năm 1940, ngay lập tức, Đọc sách như một nghệ thuật đã trở thành một trong những cuốn sách bán chạy nhất và duy trì vị trí đó trong suốt hơn một năm.
Sẽ không tránh khỏi những bất đồng muôn thuở về các khái niệm nhất định, nhưng ngay khi nhận thức được chúng, chúng tôi có thể tìm ra hướng giải quyết. Thực tế những triết gia giỏi nhất cũng không làm được điều này. Có thể, chúng ta không đưa ra được một cách hệ thống những kiến thức đã thu nhận được từ các cuốn sách khác và từ cuộc sống nhưng chúng ta lại so sánh các nhận định và kết luận của một tác giả với những gì ta đã biết từ nhiều nguồn khác nhau.
Đa số họ chỉ chuyên tâm vào các câu hỏi hạng hai và thường là những câu liên quan đến ngôn ngữ diễn đạt suy nghĩ. Ví dụ này chỉ ra sự khác biệt quan trọng giữa các loại sách thực hành. Sách tham khảo cũng phải được sử dụng một cách nghệ thuật.
Nhưng đến thế kỷ 18, nhà triết học người Scotland David Hume hoàn toàn bỏ qua sự khác biệt giữa hình ảnh và ý tưởng dù nó đã được khẳng định trong các tác phẩm của những triết gia trước đó. Lịch sử không phổ quát được như vậy. Đọc sách cũng giống như trượt tuyết.
Thiên kiến có thể xen vào bất cứ lúc nào, dù biểu hiện chỉ là mơ hồ nhất qua cách tóm tắt các luận điểm, nhấn lướt các ý, qua giọng điệu đặt câu hỏi hoặc màu sắc đậm nhạt của một điểm ta lưu ý hay qua trình tự trình bày các câu trả lời cho những câu hỏi trọng tâm. Xét về một số phương diện, yêu cầu của ông về sự rõ ràng và phân biệt rạch ròi trong suy nghĩ là chính đáng trong bầu không khí hỗn loạn của các ý tưởng thời bấy giờ. Và nếu chưa bao giờ tự hỏi bản thân câu hỏi này thì sẽ còn nhiều câu hỏi khác về cuốn sách họ không thể trả lời được.