Vượt qua các trở ngại này, người ta thường đọc nhanh hơn. Yêu cầu chỉ được nêu dữ kiện, không nêu ý kiến (trừ trường hợp như ví dụ trên) cũng hạn chế tính bao quát của các cuốn bách khoa toàn thư. Khi đưa ra lời phê bình sách mô tả, ta nhằm vào tính chân thực của cuốn sách.
Sau một hồi thăm dò, Socrates đưa ra một loạt câu hỏi và nhận xét làm sáng tỏ vấn đề. Còn trong chương kết của cuốn sách On the Motion of the Heart (Vận động của trái tim), nhà sinh lý học William Harvey đã viết: Từ lý luận và thực nghiệm, có thể rút ra kết luận tâm thất co bóp đẩy máu qua phổi và tim rồi truyền đi khắp cơ thể. Loại phương tiện hỗ trợ đọc ngoài này đặc biệt cần khi đọc các tác phẩm lớn.
Vì thế, chúng ta phải đặt ra cho sách lịch sử những câu hỏi tương tự những câu hỏi mà chúng ta hỏi bất cứ cuốn sách mô tả nào. Trong cuốn sách này, chúng tôi không khuyên các bạn các đọc triết học hiện đại vì nó chỉ liên quan đến các câu hỏi hạng hai. KHOANH TRÒN NHỮNG TỪ HAY CỤM TỪ QUAN TRỌNG: Cách này tương tự như cách gạch dưới.
Để tìm hiểu các khả năng này, trước hết, bạn cần xác định xem từ khó hiểu đó có một hay nhiều nghĩa. Chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ đặt ra ở phần mở đầu cuốn sách bằng cách đã chỉ ra rằng hoạt động chính là yếu tố cốt lõi để đọc có hiệu quả và càng đọc chủ động bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu; đã định nghĩa đọc chủ động chính là biết cách đặt câu hỏi, đâu là những câu hỏi cần phải đặt ra khi đọc bất cứ cuốn sách nào và cách thức trả lời với những loại sách khác nhau. Một là, có sự chênh lệch ban đầu trong mức độ hiểu.
Nhưng đa số độc giả thường không đọc kỹ tiêu đề sách, cả những cuốn họ đã biết hay chưa từng biết. Xác định các vấn đề chính và phụ bằng cách sắp xếp các câu trả lời đối ngược nhau của các tác giả vào các câu hỏi về một mặt của vấn đề này hay vấn đề kia. Tri thức trong bách khoa toàn thư hiện đại được chia thành các lĩnh vực hoặc chuyên đề phần nào tương ứng với các khoa ở trường đại học.
Ở chương này, chúng tôi không hề muốn thay đổi định nghĩa ấy. Khi thực hành các bài đọc đầu tiên, chúng ta phải học cách nhận biết các ký hiệu nhất định và ghi nhớ mối quan hệ nhất định giữa các ký tự. Họ nhanh chóng từ bỏ đọc tác phẩm vì nghĩ rằng mình không thể nhớ được các mối quan hệ phức tạp và cũng không thể phân biệt ai với ai.
Nếu tình trạng mập mờ này cứ tiếp diễn, tác giả và độc giả sẽ không thể đạt được sự thống nhất về ý kiến. Khi không có những cố gắng này, hầu hết độc giả sẽ không ý thức được mình đã bỏ lỡ những gì trong tác phẩm. Đây là một quan niệm hoàn toàn sai lầm.
Nhưng đây lại là điều cần thiết mỗi khi bạn đọc phân tích một tác phẩm nào đó. Chung không có nghĩa là phổ quát. Nắm bắt những nhận định chủ chốt của tác giả trên cơ sở xem xét những câu hỏi quan trọng.
Trong trường hợp đó, anh ta buộc phải sắp đặt nguyên nhân của các sự kiện cũng như động cơ của những hành động đó. Có đọc hiểu và đưa ra lời phê bình được hay không phụ thuộc vào việc người đọc có lĩnh hội đầy đủ thông tin không. Trong chương trước, chúng tôi đã trình bày những quy tắc đọc sách văn học giả tưởng.
Do đó, một câu có thể ẩn chứa nhiều nhận định khác nhau nếu có sự thay đổi về từ biểu đạt thuật ngữ. Có sự phân biệt rõ ràng, rộng khắp giữa cái tốt và cái xấu không? Có điều nào luôn luôn tốt và điều luôn luôn xấu trong mọi trường hợp không? Hay Hamlet đã đúng khi nhắc lại lời Montaigne rằng: Chẳng có gì tốt hay xấu, chỉ có sự suy nghĩ làm cho nó trở nên tốt hay xấu mà thôi? Dường như không thể giải thích được một thực tế lá có quá nhiều người bận rộn lại chết rất nhanh sau khi họ về hưu.