Rõ ràng, người đó đã nâng mình lên nhờ chính hoạt động của bản thân, mặc dù có sự giúp đỡ gián tiếp của tác giả - người đã mang đến điều gì đó để dạy người đọc. Những cuốn sách thuần tuý thông báo cho bạn những điều bạn chưa biết nhưng không giúp bạn hiểu được bản chất của chúng thì tình trạng cũng như trên. Trong chương trước, chúng tôi đã trình bày những quy tắc đọc sách văn học giả tưởng.
Khi đánh giá một cuốn sách thực hành, mọi thứ đều hướng tới kết quả đạt được. Aristotle đã nói cốt truyện là linh hồn của truyện. Tình trạng viết một đằng hiểu một nẻo như vậy sẽ làm hỏng hoặc ít nhất là cản trở hoạt động giao tiếp.
Cuốn sách này bao gồm rất nhiều định lý, phần dựng hình và các định đề. Chúng tôi cũng đồng ý rằng rất khó để chuyển ngôn từ của người này sang ngôn từ của người khác nhưng cũng không phải là không thể làm được. Ví dụ tiêu biểu nhất là cuốn Kinh Thánh.
Nhưng có nhiều cách kể khác nhau nên chúng ta phải biết sử gia đã chọn cách nào để kể câu chuyện của ông ấy. Một tập hợp tài liệu cũng có thể chứa trong nó một câu chuyện. Lịch sử của một từ có chứa các thông tin về quá trình biến đổi vật chất, cách viết và cách phát âm; nêu lên các nghĩa chuyển; phân biệt nghĩa cổ; ít hoặc không sử dụng nữa với nghĩa hiện đại, thông dụng; phân biệt thành ngữ, từ thông tục hoặc tiếng lóng.
Bạn cần nhớ rằng mỗi lĩnh vực kiến thức đều có hệ thống từ chuyên môn riêng. Tuy nhiên, do tính chất đặc biệt của lịch sử nên những câu hỏi đó sẽ hơi khác và câu trả lời cũng có thể không hoàn toàn giống với sách mô tả. Một phiên tòa thường quan tâm đến những sự kiện xảy ra gần với hiện tại và thường có sự hiện diện của nhân chứng sống.
Những đánh giá về tính chân thực của một tiểu thuyết hầu như dựa hoàn toàn vào kinh nghiệm chung kinh nghiệm sống của rất nhiều người. Nhưng cách đọc này có thể không làm thoả mãn mong muốn của họ về sự kiện và nhân vật. Ở quãng nghỉ giữa mỗi lần đọc, chúng ta có thể học được nhiều điều từ bài thơ hơn là ta nhận ra.
Làm như vậy, bạn có thể bám sát quá trình thay đổi nghĩa của từ với cùng mức độ linh hoạt trong việc sử dụng từ của tác giả. Khi đã tìm ra nguyên tắc chủ đạo của một tác giả, bạn sẽ muốn biết họ có trung thành với nguyên tắc đó trong tất cả các tác phẩm của mình không. Chúng tôi muốn gọi đó là những ghi chú có tính biện chứng (lý do sẽ được giải thích trong Phần 4).
Các triết gia vĩ đại luôn thành công trong việc gạt phăng đi những điều phức tạp và nhìn nhận những điều đơn giản. Nhờ đó, trí tuệ của bạn được nâng lên một tầm cao mới, từ hiểu ít đến hiểu nhiều. Dữ kiện không phải là vật chất giống như từ, những dữ kiện cần phải được giải thích.
Độc giả phải hỏi cùng một loại câu hỏi: Mục đích của tác giả là gì? Những tiêu chuẩn đánh giá sự thật của tác giả là gì? Và tất nhiên, chúng ta cũng phải hỏi cả những câu mà chúng ta vẫn đặt ra với bất cứ cuốn sách nào. Nhưng giả sử anh ta đọc một cuốn sách lịch sử, trong đó đưa ra một luồng tư tưởng mới, mang tính khám phá hơn, và anh ta tìm cách để hiểu bằng được, tức là đọc để hiểu biết, chứ không phải chỉ lấy thông tin. Nhưng tri óc con người không phải là một tấm gương trong, không phải là một vật phản chiếu hay một bộ lọc tốt khi thực tế soi rọi qua đó.
Những gì đi thẳng tới con tim mà không qua khối óc sẽ khiến con người mất đi lý trí. Nhưng chúng ta không cần đọc chi tiết cả cuốn, nhất là lần đọc đầu tiên. Theo đó, tác giả có thể nêu ra những nhận định của bản thân trung thực về một vấn đề thực tế hay trong lĩnh vực kiến thức nào đó.