Không nên cho rằng đọc và nghe đều cùng một nghệ thuật - nghệ thuật của việc được chỉ dạy. Một độc giả không thể phân tích ngôn từ để hiểu những thuật ngữ và nhận định ẩn trong đó thì cũng không thể đối chiếu các tác phẩm liên quan đến nhau. Những cuốn sách khoa học vĩ đại thường dễ đọc hơn rất nhiều những cuốn khác vì các tác giả đã cẩn thận giúp bạn hiểu được những thuật ngữ, xác định rõ các nhận định chính và trình bày các luận điểm chủ chốt.
Nếu bạn có những định kiến đối lập với quan điểm này và bạn không thừa nhận chúng là định kiến, bạn sẽ không thể nghe tác giả trình bày quan điểm một cách công minh. Hãy nhớ lại quy tắc 8 yêu cầu bạn phải biết vấn đề gì tác giả đã giải quyết và vấn đề gì chưa được giải quyết. Dữ kiện không phải là vật chất giống như từ, những dữ kiện cần phải được giải thích.
Bạn không thể rút ngắn các phần khác nhau của công việc, khiến chúng chồng chéo lên nhau và tuôn ra ào ào. Nếu câu hỏi mang tính lịch sử, bạn biết bạn cũng phải tiến hành nghiên cứu dù theo một cách khác. Nói cách khác, việc biết một người có những phẩm chất đáng được hâm mộ luôn đi trước việc ham muốn người đó.
Đây là một trong những lợi ích chính của việc đọc theo phương pháp này. Vì thế, chúng tôi gọi việc ghi chú này mang tính cấu trúc. Sau đó, bạn có thể dựa vào những trang này để phân tích cuốn sách.
Việc này xuất phát từ những hiểu biết còn chung chung và khá mơ hồ về cuốn sách. Việc nghiên cứu về ý tưởng có ý nghĩa lịch sử và triết học quan trọng này đã kéo dài nhiều năm. Anh ta phải biết cách vừa tác động đến cảm xúc vừa điều khiển được lý trí của độc giả.
Cách hiểu đa nghĩa này không chỉ là dạng bài tập cơ bản trong nghệ thuật đọc sách, mà còn có xu hướng tạo cho trí óc ta thói quen luôn ý thức được rằng một đoạn văn phức tạp có thể chứa đựng rất nhiều lớp nghĩa khác nhau. Tuy nhiên, truyện lại khác với cuộc đời ở đúng trang cuối của nó. Và khi đã đọc xong, rất có thể bạn kết luận là một nửa số sách bạn đọc không liên quan gì đến chủ đề cả.
Tiêu biểu là cách thể hiện của nhà toán học Euclid. Chúng ta sẽ coi chúng như một tập hợp quy ước nhằm đảm bảo độc giả tích cực đáp lại ý kiến của tác giả một cách lịch sự. Ví dụ, nếu nhìn thấy Aristotle đi cùng một phiên dịch biết cả tiếng Anh hiện đại và tiếng Hy Lạp cổ, chúng tôi sẽ không thể hiểu nổi ông ta và ông ta cũng vậy.
Bạn phải quen thuộc từng chi tiết của các tình tiết và nhân vật. Nếu bạn hỏi ai đó lối ra ở đâu, anh ta chỉ cho bạn phải đi theo hành lang B, khi đó âm điệu của anh ta thế nào bạn cũng không quan tâm. Như Aristotle đã nói hạnh phúc là chất lượng của toàn bộ cuộc đời.
Anh đã thuyết phục được tôi rằng những điều này là đúng và những điều kia là có thể. Họ cho rằng, niềm tin vào bổn phận như một quan niệm đạo đức có giá trị là điều phi thực tế. Nó có thể bỏ qua thông tin về tình trạng của nền giáo dục Mỹ trong thập kỷ đó, bỏ qua thông tin về sự dịch chuyển biên giới nước Mỹ hay những tiến bộ của nền tự do Mỹ.
Khi đối mặt với một vấn đề, một triết gia chỉ có cách duy nhất là suy nghĩ về vấn đề đó. Vì thế cần phải đọc đúng lịch sử. Giai đoạn thứ ba của quá trình đọc phân tích hay các quy tắc